Sức mạnh chủ yếu của hệ thống giáo dục đại học Mĩ là có nhiều trường, các trường rất đa dạng và có tổ chức phức tạp và có nguồn tài chính khác nhau.
Khác với nhiều quốc gia khác, Mĩ không có các trường đại học quốc gia
trực thuộc trung ương. Nhiều trường nhận được tài trợ từ chính phủ liên
bang, nhưng đa số các khoản tài trợ này là dành cho các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học, nhờ đó mà nhà trường được dành một phần
cho công tác quản lí. Điều đó làm cho một số chuyên gia nổi tiếng có
ảnh hưởng rất lớn. Và khi họ chuyển từ trường này sang trường kia, ảnh
hưởng đó làm cho người ta tin rằng họ sẽ được đối xử một cách xứng đáng.
Tất cả các bang đều có trường đại học công lập, giữa những trường này cũng có sự cạnh tranh. Thường thì mỗi bang đều muốn có mấy loại hình trường đại học công lập:
a) trường đại học tinh hoa, hướng vào công tác nghiên cứu - thí dụ như trường đại học của bang California, trường đại học của bang Michigan
b) những trường đại học giành cho đại chúng, không phải tinh hoa;
c) mỗi trường lại có rất nhiều phân hiệu - thí dụ như đại học California ở Los-Angeles, đại học California ở Berkeley, đại học California ở San-Diego
d) trường cao đẳng với chương trình học tập kéo dài hai năm, dành cho những họcsinh không đủ điểm vào những trường đại học có uy tín hơn. Tất cả những loại hình trường lớp này bảo đảm công ăn việc làm cho các giáo viên (những người thường tốt nghiệp các trường ưu tú). Như vậy là những trường đại học bình thường gián tiếp ủng hộ những trường ưu tú.
a) trường đại học tinh hoa, hướng vào công tác nghiên cứu - thí dụ như trường đại học của bang California, trường đại học của bang Michigan
b) những trường đại học giành cho đại chúng, không phải tinh hoa;
c) mỗi trường lại có rất nhiều phân hiệu - thí dụ như đại học California ở Los-Angeles, đại học California ở Berkeley, đại học California ở San-Diego
d) trường cao đẳng với chương trình học tập kéo dài hai năm, dành cho những họcsinh không đủ điểm vào những trường đại học có uy tín hơn. Tất cả những loại hình trường lớp này bảo đảm công ăn việc làm cho các giáo viên (những người thường tốt nghiệp các trường ưu tú). Như vậy là những trường đại học bình thường gián tiếp ủng hộ những trường ưu tú.
Các trường đại học tôn giáo cũng có tình hình tương tự. Vì Mĩ không có
tôn giáo của nhà nước cho nên các tôn giáo khác nhau đều tìm cách mở
trường đại học của riêng mình. Bang nào cũng có những trường như thế và
hầu như tôn giáo nào cũng có trường riêng.
Các trường tư thục như Harvard University, Yale, Princeton, Stanford, Duke University, Chicago, Pennsylvania (mặc dù gọi là trường University of Pennsylvania, nhưng đây là trường tư, còn trường đại học quốc gia ở bang này lại có tên lên Pennsylvania State University) là những trường có uy tín nhất.
Uy tín của các trường này là do đấy là những trường lâu đời nhất, khởi
kì thủy là do các giai cấp trên xây dựng lên và thành phần sinh viên
quyết định tính kế thừa địa vị tinh hoa của chúng. Trong suốt hàng chục
năm ròng, các trường này có thể lôi kéo những giáo sư tài ba nhất đến
làm việc ở đấy. Các trường này cũng thường xuyên tìm được tài trợ cho
các công trình nghiên cứu và trở thành những trung tâm đầu tư từ ngân
sách nhà nước.
Các trường mang tính thương mại.
Đây lả những trường xuất hiện chưa lâu, uy tín không cao. Thí dụ như
University of Phoenix – đây là loại trường buổi tối, giá rẻ, giành cho
những sinh viên muốn có một số nghề nghiệp nhất định.
Những kiểu trường đại học khác nhau - quốc gia, tôn giáo, tư thục -
thường xuyên tìm cách bắt chước nhau. Thí dụ như các trường Thiên chúa
giao không quá lệ thuộc vào những vấn đề tôn giáo và có thuê các các
giáo sư không phải là người Thiên chúa giáo. Nhiều trường đại học Tin
lành tìm cách chuyển thành các trường thế tục.
Các trường đại học Mĩ có thể bảo đảm được quyền tự chủ là vì họ có nhiều nguồn cung cấp tài chính:.
– tài trợ của nhà nước (nhà
nước trực tiếp cung cấp tài chính cho các trường đại học quốc gia, cũng
như tài trợ cho công tác nghiên cứu và học bổng cho sinh viên);
– đóng góp của sinh viên, những khoản đóng góp này cũng góp phần bảo đảm sự tự chủ khỏi việc kiểm soát của nhà nước ;
– đóng góp mang tính từ thiện
– từ những người giàu có, các công ty và sinh viên đã ra trường. Cung
cấp tiền cho các trường đại học là vấn đề uy tín. Những trường đại học
nổi tiếng nhất thường mang tên người sáng lập (Harvard, Yale, Stanford,
Duke). Đôi khi người ta tìm cách vinh danh những người bảo trợ giàu có
bằng cách gắn tên tuổi của họ với một trong những tòa nhà của trường;
– thể thao
cũng là nguồn thu nhập đáng kể. Trong thế kỉ XX, trường đại học có thể
trở thành nổi tiếng nếu có một đội bóng đá hay bóng rổ mạnh. Trường có
thể có thu nhập khá lớn từ bán vé các trận đấu, bán quyền truyền hình và
bán quần áo thể thao với biểu tượng của đội... Ở các nước khác, thể
thao thường tách khỏi nhà trường. Vì vậy mà không ở đâu có nguồn thu như
thế. Kết quả thật bất ngờ là những trường nổi tiếng nhất không phải là
những trường có trình độ giáo dục cao nhất mà lại là những trường có đội
thể thao thành công nhất.
* * *
Do có nhiều nguồn thu cho nên cả doanh nghiệp lẫn chính phủ đều không
thể kiểm soát được hoàn toàn trường học. Đấy là bảo đảm cho sự tự chủ
của nhà trường. Làm thế nào mà chuyện đó có thể nâng cao được năng suất
trong lĩnh vực trí tuệ và làm cho Mĩ trở thành nước giữ thế thượng phong
về mặt trí tuệ trên thế giới? Các trường đại học tìm cách mời những
giáo sư nổi tiếng nhất và có năng suất cao nhất và thường thì các trường
của Mĩ cũng có điều kiện trả họ mức lương cao hơn và sự tự chủ để các
giáo sư có thể thực hiện được những ý tưởng của mình.
Một tác nhân quan trọng khác - cơ cấu bên trong, các trường đại học Mĩ
có rất nhiều giáo sư trong từng lĩnh vực. Đấy là sự khác biệt với hệ
thống giáo dục truyền thống của châu Âu – nơi "mỗi ngành chỉ có một giáo
sư". Các trường đại học Mĩ thường tìm cách thành lập những khoa lớn với
nhiều giáo sư trong mỗi lĩnh vực, điều đó đã chuyển trung tâm quyền lực
lãnh đạo của trường xuống các khoa. Như vậy nghĩa là các khoa trở thành
trung tâm cải tiến.
Từ sau Thế chiến II, hệ thống giáo dục Mĩ đã chiếm được những vị trí
đầu tầu trên thế giới. Một phần là do sự suy sụp của các trường đại học ở
Đức (chiến tranh và chủ nghĩa quốc xã). Mĩ đã được lợi vì nước này thu
nhận những giáo sư-nhập cư tài giỏi nhất vào các trường đại học của
mình. Nhiều giáo sư hiện nay là học trò của những người di dân thuở nào.
Năm 1945 cũng là thời điểm mà giáo dục đại học Mĩ trở thành đại chúng:
tỉ lệ thanh niên theo học đại học từ 10 phần trăm đã tăng dần và hiện
chiếm tới lên 60 phần trăm. Điều này làm gia tăng nhu cầu số lượng
trường đại học, giáo viên và kết quả là gia tăng những cơ cấu khuyến
khích sáng kiến. Ở Pháp thì lại khác, các trường đại học ở nước này bị
giới hạn bởi cơ cấu của trung ương. Các trường ở Anh, tuy có được khá
nhiều quyền tự chủ, nhưng càng ngày càng bị chính phủ áp lực vì họ hầu
như chỉ có một nguồn tài trợ duy nhất là ngân sách.
* * *
Hiện nay các trường đại học Mĩ cũng gặp một số khó khăn tạm thời. Từ
khi các trường tinh hoa nhận được nhiều tiền quyên góp của các cá nhân
thì họ cũng trở thành những tay chơi có máu mặt trên thị trường chứng
khóan, vì vậy mà cùng với sự suy thoái kinh tế trong hai năm vừa qua, họ
đã phải đưa ra những kế hoạch tài chính mang tính bảo thủ hơn. Nhưng
đây chỉ là một trong những nguồn thu cho nên tôi nghĩ rằng nó cũng không
có ảnh hưởng lớn đối với tính tự chủ của họ.
Trong
các môn khoa học tự nhiện, có sự hợp tác gắn bó giữa giới doanh nghiệp
và các trường thực hiện những dự án nghiên cứu đặc thù. Một số nhà phê
bình phàn nàn rằng điều đó sẽ buộc các trường phải quên đi lí tưởng là
tìm kiếm kiến thức và làm cho họ có thói hám lợi. Áp lực là có, nhưng
cũng có những tác nhân cân bằng khác: tầm quan trọng của việc giữ các
giáo sư nổi tiếng trong cùng một khoa, điều này sẽ thúc đẩy những hoạt
động thuần túy trí thức. Tuy nhiên, phát minh vĩ đại hay lí thuyết mới
vẫn là phương pháp tạo uy tín tốt nhất. Nhiều giáo sư đại học còn thể
hiện sáng kiến riêng bằng cách đưa phát minh của mình ứng dụng vào lĩnh
vực thương mại. Thí dụ như sự bùng nổ của công nghệ sinh học trong mấy
năm gần đây. Vì vậy mà không được coi hoạt động nghiên cứu của các
trường đại học hoàn toàn là do nhu cầu của doanh nghiệp. Hơn nữa, nhiều
xí nghiệp công nghệ cao lại làm cho người ta liên tưởng tới khuôn viên
đại học. Các xí nghiệp này bắt chước cách làm việc của trường đại học.
Nhưng cũng không nên cường điệu sự độc quyền về trí tuệ của các trường
đại học Mĩ. Trong những lĩnh vực trí tuệ như triết học, văn học và xã
hội học, trung tâm tri thức thế giới trong 50 năm lại đây có lẽ nằm ở
Paris. Chuyện đó xảy ra là do sự kết hợp một cách tài tình những trường
đại học tinh hoa, ngành in ấn và công nghệ truyền thông, trung tâm chính
trị và thế giới nghệ thuật của Pháp - từ đó mới có các "nhà tư tưởng"
nổi tiếng của Pháp như Sartre, Lévi-Strauss vả Bourdieu, những người nổi
tiếng cả ở bên ngoài khuôn viên đại học.
Mĩ không có cơ chế như thế - các nhà trí thức Mĩ thường phàn nàn về
chuyện đó. Washington là trung tâm chính trị chứ không phải là trung tâm
trí thức; New York và Los-Angeles là trung tâm truyền thông, ở đấy cũng
có một số trường đại học tốt, nhưng các thành phố này không phải là thủ
đô và cũng không giữ thế thượng phong trong thế giới đại học. Các
trường đại học lớn nằm ở Boston, Chicago, San-Fransisco, Philadelphia,
và nhiều thành phố nhỏ hơn như Princeton hay New-Haven.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét